Hs crp là gì? Các công bố khoa học về Hs crp

HS CRP là viết tắt của High-Sensitivity C-Reactive Protein (CRP) trong tiếng Anh. Đây là một chỉ số được sử dụng trong y học để đánh giá mức độ viêm nhiễm trong...

HS CRP là viết tắt của High-Sensitivity C-Reactive Protein (CRP) trong tiếng Anh. Đây là một chỉ số được sử dụng trong y học để đánh giá mức độ viêm nhiễm trong cơ thể. CRP là một chất được tạo ra bởi gan khi xảy ra viêm nhiễm. Thông qua việc đo mức độ HS CRP trong máu, bác sĩ có thể xác định xem cơ thể có một loại viêm nhiễm nào đó đang diễn ra hay không, và từ đó đưa ra chẩn đoán và điều trị phù hợp.
HS CRP (High-Sensitivity C-Reactive Protein) là một loại protein có trong huyết tương máu. Nó được sản xuất bởi gan khi có sự xảy ra của một tình trạng viêm nhiễm trong cơ thể.

C-Reactive Protein (CRP) là một protein phức tạp, tham gia vào hệ thống miễn dịch và có vai trò quan trọng trong quá trình phản ứng viêm. HS CRP là một biểu hiện cho CRP tồn tại trong máu ở cấp độ rất nhỏ, có độ nhạy cao hơn so với phương pháp đo CRP thông thường.

Mức độ HS CRP cao trong máu cho thấy có sự tồn tại của một quá trình viêm nhiễm trong cơ thể. Đây có thể là do một loạt nguyên nhân, bao gồm như vi khuẩn, virus, tổn thương mô cơ địa, viêm thực quản, viêm khớp, bệnh tự miễn, bệnh tim mạch và nhiễm trùng.

Đo mức độ HS CRP thông qua xét nghiệm máu có thể giúp bác sĩ đánh giá mức độ viêm nhiễm và đồng thời dùng để chẩn đoán và theo dõi những bệnh liên quan đến viêm nhiễm như viêm khớp dạng thấp, tăng nguy cơ bệnh tim mạch và như một chỉ số tiên đoán cho nguy cơ mắc các vấn đề sức khỏe như bệnh tim mạch và đột quỵ.

Việc theo dõi mức độ HS CRP trong thời gian dài có thể giúp bác sĩ đánh giá tác động của điều trị và điều chỉnh phương pháp điều trị hiện tại.
HS CRP là một chỉ số được sử dụng trong y học để đánh giá mức độ viêm nhiễm trong cơ thể. Đây là một biểu hiện của protein CRP, một phần của hệ thống miễn dịch.

Khi xảy ra viêm nhiễm trong cơ thể, mức độ sản xuất CRP tăng lên. HS CRP là một dạng đặc biệt của CRP được đo theo cách rất nhạy, có thể phát hiện những mức độ rất thấp của CRP trong máu. Điều này giúp cho việc xác định mức độ viêm nhiễm một cách chính xác hơn.

Việc đo HS CRP thông qua xét nghiệm máu có thể được sử dụng trong nhiều mục đích khác nhau:

1. Đánh giá nguy cơ bệnh tim mạch: HS CRP được sử dụng như một chỉ số dự báo nguy cơ bị bệnh tim mạch. Nghiên cứu cho thấy mức độ cao của HS CRP có liên quan mật thiết đến tình trạng viêm nhiễm trong lòng mạch, góp phần vào sự hình thành và phát triển của mạch máu bị tắc nghẽn.

2. Chẩn đoán viêm nhiễm: HS CRP có thể được sử dụng như một công cụ hỗ trợ để chẩn đoán các tình trạng viêm nhiễm trong cơ thể, bao gồm viêm gan, viêm phổi, viêm khớp và viêm ruột.

3. Đánh giá hiệu quả điều trị: Việc theo dõi mức độ HS CRP theo thời gian có thể giúp bác sĩ đánh giá hiệu quả của việc điều trị. Nếu mức độ HS CRP giảm xuống sau điều trị, điều này có thể cho thấy tình trạng viêm nhiễm đang được kiểm soát tốt hơn.

4. Đánh giá nguy cơ tái phát: Mức độ HS CRP có thể giúp đánh giá nguy cơ tái phát của một số bệnh, chẳng hạn như bệnh tái phát sau phẫu thuật tim mạch.

Việc xác định mức độ HS CRP thông qua xét nghiệm máu là một phương pháp đơn giản và nhanh chóng để đánh giá mức độ viêm nhiễm trong cơ thể. Tuy nhiên, nó chỉ cho thấy một phần nhỏ của hình ảnh chung của tình trạng sức khỏe và cần được đánh giá kết hợp với các yếu tố khác để đưa ra đánh giá chính xác và phương pháp điều trị thích hợp.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "hs crp":

Ảnh hưởng của việc sử dụng thực phẩm bổ sung probiotics đa loài đến các chỉ số chuyển hóa, hs-CRP và stress oxy hóa ở bệnh nhân tiểu đường loại 2 Dịch bởi AI
Annals of Nutrition and Metabolism - Tập 63 Số 1-2 - Trang 1-9 - 2013

Thông tin nền: Chúng tôi chưa biết đến nghiên cứu nào chỉ ra tác động của việc tiêu thụ hàng ngày các thực phẩm bổ sung probiotics đa loài đối với các chỉ số chuyển hóa, protein phản ứng C nhạy cảm cao (hs-CRP) và stress oxy hóa ở bệnh nhân tiểu đường. Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm xác định tác động của các thực phẩm bổ sung probiotics đa loài đến các chỉ số chuyển hóa, hs-CRP và stress oxy hóa ở bệnh nhân tiểu đường. Phương pháp: Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, mù đôi, có kiểm soát giả dược này được thực hiện trên 54 bệnh nhân tiểu đường từ 35 đến 70 tuổi. Các đối tượng được phân bổ ngẫu nhiên để sử dụng hoặc một thực phẩm bổ sung probiotics đa loài (n = 27) hoặc giả dược (n = 27) trong 8 tuần. Thực phẩm bổ sung probiotics đa loài gồm 7 chủng vi khuẩn còn sống và đã được sấy khô: Lactobacillus acidophilus (2 × 109 CFU), L. casei (7 × 109 CFU), L. rhamnosus (1.5 × 109 CFU), L. bulgaricus (2 × 108 CFU), Bifidobacterium breve (2 × 1010 CFU), B. longum (7 × 109 CFU), Streptococcus thermophilus (1.5 × 109 CFU), và 100 mg fructo-oligosaccharide. Mẫu máu lúc nhịn ăn được lấy tại thời điểm cơ bản và sau can thiệp để đo các chỉ số chuyển hóa, hs-CRP và các chỉ số sinh học về stress oxy hóa bao gồm khả năng chống oxy hóa tổng thể trong huyết tương và tổng glutathione (GSH). Kết quả: So sánh giữa các nhóm về glucose huyết tương lúc nhịn ăn (FPG) cho thấy việc tiêu thụ các thực phẩm bổ sung probiotics ngăn ngừa sự gia tăng FPG (+28.8 ± 8.5 đối với giả dược so với +1.6 ± 6 mg/dl đối với nhóm probiotics, p = 0.01). Mặc dù sự gia tăng đáng kể trong insulin huyết thanh và nồng độ cholesterol lipoprotein mật độ thấp được tìm thấy ở cả nhóm probiotics và nhóm giả dược, nhưng những thay đổi này tương tự nhau giữa hai nhóm. Chúng tôi ghi nhận sự gia tăng đáng kể trong HOMA-IR (mô hình đánh giá nhà ở - kháng insulin) ở cả nhóm probiotics (p = 0.02) và nhóm giả dược (p = 0.001); tuy nhiên, sự gia tăng ở nhóm giả dược cao hơn đáng kể so với nhóm probiotics (+2.38 so với +0.78, p = 0.03). Những thay đổi trung bình trong hs-CRP huyết thanh có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm (-777.57 đối với nhóm probiotics so với +878.72 ng/ml đối với nhóm giả dược, p = 0.02). Việc bổ sung probiotics dẫn đến sự gia tăng đáng kể nồng độ GSH trong huyết tương so với giả dược (240.63 so với -33.46 µmol/l, p = 0.03). Kết luận: Tóm lại, việc bổ sung probiotics đa loài, so với giả dược, trong 8 tuần ở bệnh nhân tiểu đường đã ngăn ngừa sự gia tăng FPG và dẫn đến giảm hs-CRP huyết thanh và tăng GSH tổng thể trong huyết tương.

#probiotics đa loài #bệnh tiểu đường loại 2 #chỉ số chuyển hóa #hs-CRP #stress oxy hóa
Mức hsCRP và Nguy Cơ Tử Vong hoặc Sự Kiện Tim Mạch Tái Phát ở Bệnh Nhân Nhồi Máu Cơ Tim: một Nghiên Cứu Dựa trên Dịch Vụ Y Tế Dịch bởi AI
Journal of the American Heart Association - Tập 8 Số 11 - 2019
Thông Tin Nền Ngoài các điều kiện kiểm soát trong các thử nghiệm, thông tin về gánh nặng, các yếu tố dự đoán và kết quả liên quan đến mức hs CRP (protein phản ứng C nhạy cảm cao) ở những bệnh nhân "thực tế" mắc bệnh nhồi máu cơ tim ( MI ) còn hạn chế.

Phương Pháp và Kết Quả Chúng tôi đã bao gồm tất cả các bệnh nhân sống sót sau MI tham gia kiểm tra hs CRP sau 30 ngày kể từ khi MI trong quá trình chăm sóc sức khỏe thông thường tại Stockholm, Thụy Điển (2006–2011). Các xét nghiệm hs CRP được thực hiện trong thời gian nhập viện/khám cấp cứu, tiếp theo là kháng sinh hoặc biểu hiện của bệnh cấp tính, đã bị loại trừ, cùng với những bệnh nhân có ung thư đang diễn ra/gần đây, nhiễm trùng mãn tính, hoặc suy giảm miễn dịch. Viêm được xác định trong khoảng thời gian 3 tháng cơ bản và được liên kết với cái chết sau đó và các sự kiện tim mạch bất lợi nghiêm trọng (tổng hợp bao gồm MI, đột quỵ do thiếu máu cục bộ, hoặc tử vong do tim mạch). Có 17.464 bệnh nhân được đưa vào (63% nam giới; tuổi trung bình, 72.6 năm) với mức hs CRP trung vị là 2.2 (phạm vi giữa các phần tư, 1.0–6.0) mg/L và trung vị thời gian từ khi xảy ra MI là 2.2 (phạm vi giữa các phần tư, 0.8–4.9) năm. Hầu hết (66%) có mức hs CRP ≥2 mg/L, và 40% có hs CRP >3 mg/L. Nồng độ hemoglobin thấp hơn, tỷ lệ lọc cầu thận ước tính thấp hơn, và các bệnh đi kèm (ví dụ: suy tim, bệnh mạch máu ngoại vi, đột quỵ, rung nhĩ, tiểu đường, và các bệnh thấp khớp) có liên quan đến xác suất cao hơn của hs CRP ≥2 mg/L. Ngược lại, can thiệp động mạch corona qua da trước đó, đang điều trị bằng thuốc chẹn renin-angiotensin, và statin có liên quan đến xác suất thấp hơn của hs CRP ≥2 mg/L. Những bệnh nhân có hs CRP ≥2 mg/L có nguy cơ cao hơn về các sự kiện tim mạch bất lợi nghiêm trọng (n=3900; tỷ lệ rủi ro điều chỉnh, 1.28; 95% CI, 1.18–1.38) và tử vong (n=4138; tỷ lệ rủi ro điều chỉnh, 1.42; 95% CI, 1.31–1.53). Kết quả này vững chắc trong các phân nhóm bệnh nhân và sau khi loại trừ các sự kiện xảy ra trong 6 đến 12 tháng đầu tiên. Trên thang đo liên tục, mối liên hệ giữa hs CRP và các kết quả là tuyến tính cho đến mức hs CRP >5 mg/L, sau đó ổn định.

Kết Luận Hầu hết bệnh nhân mắc MI đều có mức hs CRP cao. Ngoài việc xác định các nhóm có nguy cơ viêm nhiễm cao, nghiên cứu này mở rộng tính hợp lệ dự đoán của sinh học đánh dấu này từ chứng cứ thử nghiệm đến các điều kiện chăm sóc sức khỏe thực tế.

Serum vitamin C concentration and hs-CRP level in middle-aged Japanese men and women
Atherosclerosis - Tập 208 Số 2 - Trang 496-500 - 2010
Mối quan hệ giữa Ferritin huyết thanh và Lipid máu: Ảnh hưởng của Bệnh tiểu đường và mức độ hs-CRP Dịch bởi AI
Journal of Diabetes Research - Tập 2020 - Trang 1-12 - 2020
Nghiên cứu này nhằm khám phá mối quan hệ giữa ferritin huyết thanh và lipid trong máu cũng như ảnh hưởng của bệnh tiểu đường và các mức độ hs-CRP khác nhau. Tổng cộng có 8163 đối tượng được phân tích. Các tham gia viên được phân loại theo ferritin huyết thanh, bệnh tiểu đường và hai mức độ hs-CRP. Lipid máu được xác định bằng phương pháp và điều kiện chuẩn hóa. Ngoại trừ HDL-C, có sự gia tăng đáng kể lipid trong máu trong nhóm ferritin tiến triển với các mức hs-CRP bình thường (P<0.05). Tuy nhiên, HDL-C lại ngược lại (P<0.0001). Trong số các bệnh nhân không bị tiểu đường, TG, TC và LDL-C đã tăng đáng kể trong nhóm ferritin tiến triển (P<0.05). Và HDL-C cũng ngược lại (P<0.05). Mô hình tuyến tính tổng quát và mô hình tiết kiệm cho thấy TG huyết thanh có mối liên hệ tích cực với ferritin, trong khi LDL-C có mối liên hệ tiêu cực với ferritin (P<0.05). Tuy nhiên, mối liên hệ giữa LDL-C và ferritin đã bị phá vỡ (P>0.05). Sau khi điều chỉnh đầy đủ, có một mối liên hệ tích cực giữa TG huyết thanh và ferritin và một mối liên hệ tiêu cực giữa LDL-C và ferritin. Tuy nhiên, mối liên hệ tiêu cực giữa LDL-C và ferritin bị ảnh hưởng bởi sức khỏe kém của bệnh tiểu đường. Bên cạnh đó, không có sự thay đổi nào về mối quan hệ giữa lipid và ferritin trong các mức độ hs-CRP khác nhau. Chúng tôi đã tìm thấy một mối quan hệ thực sự giữa ferritin và lipid sau khi điều chỉnh đầy đủ cho các yếu tố gây rối.
Mối liên hệ giữa protein phản ứng C nhạy cảm cao (hsCRP) và các yếu tố nguy cơ tim mạch đã được xác định trong dân số Ấn Độ Dịch bởi AI
Nutrition & Metabolism - Tập 8 Số 1 - 2011
Tóm tắt Giới thiệu

Viêm là yếu tố điều chỉnh chính việc tổng hợp protein phản ứng C (CRP), đóng vai trò quan trọng trong bệnh tim mạch huyết khối.

Phương pháp

Phân tích hsCRP (high sensitivity C-reactive protein - protein phản ứng C nhạy cảm cao) được thực hiện trên 600 cá nhân được chọn ngẫu nhiên từ nghiên cứu giám sát sentinel trong dân số công nghiệp Ấn Độ (SSIP). Mức hsCRP được đo bằng phương pháp định lượng bằng thử nghiệm đục với bộ kit từ SPINREACT, Tây Ban Nha. Chúng tôi đã phân tích mối liên hệ giữa hsCRP và các yếu tố nguy cơ tim mạch truyền thống trong mẫu phụ này.

Kết quả

Dữ liệu về các yếu tố nguy cơ và mức CRP đầy đủ có sẵn từ 581/600 cá nhân. Một nửa (51.2%) trong số những người tham gia nghiên cứu là nam giới. Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 39.2 ± 11.2 năm. Hệ số tương quan Pearson dao động từ 0.12 cho huyết áp tâm thu (SBP) (p = 0.004) đến 0.55 cho chỉ số khối cơ thể (BMI) (p < 0.001). Hệ số hồi quy tuyến tính dao động từ 0.01 cho SBP, PG và TC (p < 0.001) đến 0.55 cho logeTAG (p < 0.001) sau khi điều chỉnh theo tuổi tác, giới tính và trình độ học vấn. Giá trị trung bình của logehsCRP tăng đáng kể (P < 0.001) từ các cá nhân có ≤1 yếu tố nguy cơ (-0.50) đến những cá nhân có ba yếu tố nguy cơ trở lên (0.60). Trong mô hình đa biến, tỷ lệ odds cho CRP cao (CRP ≥ 2.6 mg/dl) chỉ tăng lên đáng kể ở nữ so với nam (1.63, 95% CI; 1.02-2.58), ở những cá nhân thừa cân so với những cá nhân có trọng lượng bình thường (3.90, 95% CI; 2.34-6.44, p < 0.001), và ở những cá nhân béo bụng (1.62, 95% CI; 1.02-2.60, p = 0.04) so với những cá nhân không béo.

Tổng số: 148   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10